Huyền Chip chỉ 6 lỗi thường gặp khi học tiếng Anh của phần lớn người Việt

(Dân trí) - Trên trang cá nhân của mình, Huyền Chip (Nguyễn Thị Khánh Huyền), sinh viên Việt đang theo học bậc thạc sĩ tại Đại học Stanford danh tiếng nước Mỹ vừa chia sẻ kinh nghiệm học tiếng Anh của bản thân và những lỗi cơ bản người Việt thường gặp khi nói tiếng Anh.

Tôi đã học tiếng Anh như thế nào?

Khi bạn bè quốc tế hỏi tôi học tiếng Việt có khó không, tôi thường đùa: “Không. Hầu như đứa trẻ ba tuổi nào ở nước tao cũng nói được tiếng Việt”.

Câu trả lời này cũng có thể được sử dụng khi ai đó hỏi tôi học tiếng Anh có khó không. Mặc dù là câu nói đùa, tôi nghĩ nó vẫn có một phần sự thật trong đó. Nếu một đứa trẻ ba tuổi có thể học nói được tiếng Anh thì chẳng có lý do để người lớn như mình không học được cả.

Mỗi lần ai đó hỏi bí quyết học ngoại ngữ của tôi là gì, tôi thường không biết phải trả lời làm sao để người đó hài lòng. Họ thường mong đợi một bí quyết gì đó cao sang có thể giúp họ thành thạo một ngôn ngữ nào đó nhanh chóng và dễ dàng, nhưng bí quyết duy nhất của tôi chỉ là thời gian và thực hành.

Học bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng là một quá trình, không thể một sớm một chiều là xong được. Thay vì chia sẻ bí quyết thần thánh nào đó mà các trung tâm tiếng Anh nào đó phát minh ra để dụ học viên cả tin, tôi nghĩ một việc có ích hơn là chia sẻ với các bạn quá trình học tiếng Anh của bản thân.

Huyền Chip chia sẻ kinh nghiệm từ chính quá trình học tiếng Anh của bản thân cô.
Huyền Chip chia sẻ kinh nghiệm từ chính quá trình học tiếng Anh của bản thân cô.

Tôi được học tiếng Anh lần đầu tiên năm lớp ba và tôi thích học lắm, bởi lúc đó tôi cảm giác như mình được bước vào một thế giới khác vậy. Mỗi lúc tha thẩn chơi một mình, tôi lại hình dung mình đang nói chuyện với người bạn tưởng tượng của mình bằng tiếng Anh. Tôi thường lấy phấn viết những cuộc hội thoại đó lên nền gạch, có hôm viết kín cả sân.

Từ lớp 4 đến lớp 9, tôi vào đội tuyển Toán. Nhà trường ưu tiên cho chúng tôi học đội tuyển để thi thố, nên những môn khác, bao gồm cả tiếng Anh, bị dẹp sang một bên.

Khi lên Hà Nội học cấp ba, tôi đã nhớ mình bị khủng hoảng toàn tập trong lớp tiếng Anh đầu tiên khi cô giáo gọi hai bạn lên giới thiệu bản thân bằng tiếng Anh và tụi nó bắn ra một tràng. Tôi không hiểu một chữ nào cả, ngoại trừ tên của tụi nó.

Vốn từ vựng của tôi rất ít, cách phát âm buồn cười, đã vậy lại còn nói ngọng. Quê tôi nói ngọng âm ‘l’ thành âm ‘n’, âm ‘tr’ thành âm ‘t’, thỉnh thoảng ‘th’ với ‘s’. Cách tôi nói âm ‘r’ cũng được nhẹ nhàng như người Hà Nội.

Có lần thầy giáo môn Sử gọi tôi lên trả bài đã bắt tôi đứng trước lớp lặp đi lặp lại hai từ “lễ hội” và “lung linh” cho đến khi tôi nói được âm “l” mới cho về chỗ. Cả lớp cười lăn lộn từ đầu đến cuối, còn tôi xấu hổ quá nên quyết tâm sửa cách phát âm cả tiếng Việt và tiếng Anh.

Không có tiền đi các trung tâm dạy tiếng Anh, tôi quyết tâm tự học. Hồi đó tôi không có máy tính nối mạng ở nhà đâu mà muốn dùng Internet phải ra ngoài tiệm. Mấy anh chị đại học tôi quen giới thiệu cho tôi cuốn Ngữ pháp tiếng Anh thực hành (English Grammar in Use).

Tôi đạp xe lên đường Láng, hồi đấy tràn ngập các cửa hàng sách cũ, tìm mua cuốn này. Không còn tiền mua các sách khác, tôi mượn sách tiếng Anh của mấy đứa bạn học cùng rồi chép tay các cuốn sách đó, bởi lúc đó tôi nghèo đến mức tiền đi in sách cũng không có. Tôi chép tay bởi mỗi khi gặp từ hay cụm từ nào mới, tôi muốn gạch chân nó để ghi chú bên lề.

Để cải thiện phát âm, tôi tận dụng mọi cơ hội nghe nói có thể. Một lần đi qua chợ Phùng Khoang, tôi thấy người ta bày bán đồ vũ và mua cho mình một cái Sony Walkman để nghe nhạc tiếng Anh.

Thằng bạn người Hà Nội (bây giờ nghĩ lại thì đoán chắc hồi đó thích mình), tìm lời những bài hát tiếng Anh tôi thích rồi in ra cho tôi. Tôi nghe đi nghe lại cho đến khi thuộc lòng. Đến tận bây giờ, tụi bạn bên Mỹ của tôi vẫn mắt tròn mắt dẹt khi phát hiện ra tôi dường như biết lời của đủ các bài hát từ đời nảo đời nào.

Tôi tham gia tình nguyện dẫn khách du lịch tham quan Hà Nội để có cơ hội nói chuyện với người nước ngoài. Khi nào rảnh rỗi, tôi đạp xe lên bờ Hồ, rụt rè hỏi người nước ngoài liệu họ có thời gian nói chuyện với tôi không.

Tôi nhớ như in Peter, anh chàng người Mỹ 19 tuổi đang xách ba lô đi quanh châu Á sau khi tốt nghiệp cấp ba. Cậu có đôi chân rất dài, tôi nhìn trộm chân cậu liên tục vì hai chân toàn vết xây xước, có chỗ đang lên mủ, còn cậu thì vừa nói chuyện vừa lấy tay cậy mấy cái vảy nhìn kinh không chịu được.

Tuy vậy, tôi đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra chuyện các bạn trẻ học xong cấp ba dành một vài năm đi trải nghiệm ở nước cậu là hết sức bình thường. Nó được gọi là gap-year.

Để trở thành du học sinh Mỹ, Huyền Chip đã chăm chỉ nỗ lực vượt qua giai đoạn khủng hoảng trong học tập Anh ngữ.
Để trở thành du học sinh Mỹ, Huyền Chip đã chăm chỉ nỗ lực vượt qua giai đoạn "khủng hoảng" trong học tập Anh ngữ.

6 lỗi cơ bản mà phần đông người Việt mắc phải khi học tiếng Anh

Qua sách báo, bạn bè, những người nước ngoài tôi nói chuyện cùng, cũng như quan sát của bản thân, tôi nhận ra những lỗi mình thường gặp phải khi nói tiếng Anh. Đây cũng là lỗi mà phần lớn người Việt Nam gặp phải.

Lỗi đầu tiên là không nói phụ âm ở cuối. Ví dụ, cho tất cả các từ “nice”, “nine”, và “nite”, tôi sẽ đọc là “nai”, trong khi người nghe sẽ nghĩ tôi đang nói từ “nigh” vì “nice”, “nine”, và “nite” đều có phụ âm ở cuối.

Lỗi thứ hai là nói một từ nhiều âm tiết như đang nói nhiều từ riêng lẻ. Trong tiếng Việt, các âm tiết được phát âm riêng biệt. Sự ngắt quãng giữa các âm tiết trong cùng một từ không khác sự ngắt quãng giữ các âm tiết trong các từ khác nhau trong lắm.

Ví dụ, khi mình nói “hoa hồng có gai”, “hoa” và “hồng” rõ ràng là thuộc cùng một từ, nhưng mình có thể nhẩn nha nói “hoa”, “hồng”, “có”, “gai” - nếu có ngắt quãng dài dài giữa “hoa” và “hồng” thì người nghe vẫn hiểu.

Trong tiếng Anh, một từ với nhiều âm tiết khác nhau phải được nói liền mạch. Ví dụ, khi mình muốn nói “roses have thorns”, từ “roses” có hai âm và mình phải nói nó liền mạch, để người nghe hiểu rõ rằng âm thứ hai của “roses” gắn với âm thứ nhất của “roses” để tạo thành một từ, chứ không phải là một từ riêng lẻ hay gắn với âm “have” để tạo thành một từ gì đó.

Lỗi thứ ba là trọng âm. Đến tận bây giờ, sau khi đã ở Mỹ gần 4 năm, tôi vẫn thỉnh thoảng khiến bạn bè dở khóc dở cười vì lỗi này. Một từ có nhiều âm tiết khác nhau, có âm tiết cần nhấn mạnh, có âm tiết cần nói nhẹ hay thậm chí bỏ qua. Nhiều người chỉ nghe trọng âm để suy đoán ý nghĩa.

Nhiều từ có cách viết giống nhau nhưng nghĩa khác nhau tùy thuộc vào âm tiết nào bạn đang nhấn mạnh. Có lần tôi muốn nói: “are you content yet?” theo nghĩa là “mày hài lòng chưa?”, nhưng khi phát âm từ content, tôi đặt trọng âm vào âm tiết thứ nhất thay vì âm tiết thứ hai, và câu nói của tôi trở thành “mày là nội dung chưa?”

Lỗi thứ tư là không biết chữ cái nào là câm (silent). Trong tiếng Anh, có nhiều chữ cái được viết ra nhưng không đọc. Một chữ ái câm khá phổ biến là “p” hay “k” trước “s” và “n”. Ví dụ, “pseudo”, “psychic”, “knee”, “knot” sẽ chỉ đọc là “seudo”, “syhic”, “nee”, “not”.

Tuy có một số nguyên tắc mình có thể áp dụng, có khá nhiều chữ cái dường như chỉ trở thành câm lặng vì ai đó cao hứng muốn nó thành câm lặng. Bạn có thể google “silent letter word list” để thấy một số từ với chữ cái câm lặng phổ biến.

Lỗi thứ năm là không phát âm được những âm không có trong tiếng Việt và thay thế chúng bằng một âm nào đó mình quen thuộc. Có nhiều âm có trong tiếng Việt, nhưng không có trong tiếng Anh, người nước ngoài mình gặp đều gặp khó khăn phát âm chữ “ng”, “ngh” hay phân biệt “a”, “ă”, “ấ” cũng như đọc từ có dấu.

Ngược lại, có nhiều âm có trong tiếng Anh mà tiếng Việt không có, như âm “ge” ở cuối từ “garage”, âm “r” ở sau nguyên âm như trong từ “work” và “park”, âm “u” trong những từ “button”, âm “th”, âm “z”, âm “j”. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không nói được âm “th” như cách người Mỹ nói.

Lỗi thứ sáu là không có ngữ điệu chuẩn. Vì có đến những 6 dấu, tiếng Việt mình lên bổng xuống trầm mà bạn bè tôi bảo là nghe như hát. Nhiều người khi nói tiếng Anh vẫn giữ nguyên xi cái lên bổng xuống trầm xuống, thỉnh thoảng còn cố thêm dấu cho mấy âm tiết tiếng Anh để mà dễ đọc. Có lần có người khuyên tôi nên thêm dấu nặng vào trọng âm và dấu huyền vào âm nhẹ, ví dụ như “content” với trọng âm ở đầu đọc thành "cón tèn".

Khi biết mình hay phạm các lỗi này rồi, tôi ý thức cố gắng sửa. Tôi nói chậm lại, chú trọng vào từng âm tiết một. Khi có máy tính lắp mạng ở nhà, tôi dùng từ điển. Tôi tra từng từ từng từ một để xem cách phát âm của từ đó như thế nào, trọng âm vào những âm tiết nào, có âm câm nào không.

Nhiều từ mình cứ đinh ninh biết đọc rồi nhưng tra cách phát âm mới biết mình đọc sai hoàn toàn. Bây giờ, khi có mạng, tôi chỉ cần google “[từ đó] meaning” trên Google sẽ ra cả nghĩa, cách phát âm, và logo hình loa bên cạnh từ đó mình có thể nhấn vào để nghe cách phát âm mẫu.

Với các âm tôi gặp rắc rối khi đọc, tôi lặp đi lặp lại cho đến khi nói được thì thôi. Tôi thường ghi âm cách phát âm của mình để nghe lại, bởi tôi phát hiện ra cái mình nghe trong đầu khác hẳn với cái người khác nghe. Một phần mềm giúp mình học cách phát âm khá tốt như Elsa, được xây dựng bởi chị Vũ Văn, một người Việt học MBA ở Stanford ra.

Để quen với ngữ điệu tiếng Anh, tôi chịu khó nghe tin tức thời sự (dĩ nhiên là bằng tiếng Anh). Ngay cả khi không chú ý nghe, tôi vẫn bật kênh tin tức lên để tai mình quen với ngữ điệu đó, với hy vọng dần dần sẽ thôi không còn cố thêm dấu cho tiếng Anh.

Có một đợt tôi xem kênh Disney Channel khá nhiều, vì kênh đó có chương trình bằng tiếng Anh với phụ đề bằng tiếng Việt. Tôi cố gắng nghe, khi nào không hiểu thì đọc phụ đề để suy đoán xem từ mình không nghe được là gì.

Huyền Chip

Từ Đại học Stanford, Hoa Kỳ